Sự lép vế của i10 trước Morning chứng tỏ khách hàng chưa đặt đủ niềm tin vào sản phẩm này của Hyundai. Phiên bản đời 2011, có những thay đổi nhỏ so với các bản trước đó.
Phần lưới tản nhiệt và hốc gió ăn liền với nhau, tạo thành hình lục giác giống như các đàn anh như Accent hay Avante. Tuy mới nhưng i10 vẫn gặp vấn đề căn bản là nhỏ, không "trường xe" như Morning.

Hyundai i10 nằm cùng phân khúc với Morning, Chevrolet Spark, Suzuki Alto.
Các "số đo" i10 cũng nhỏ hơn Morning 2012. Chiều dài cơ sở 2.380 mm, ngắn hơn Morning khoảng 5 mm. Dài tổng thể 3.585 mm, ngắn hơn 10 mm. Nội thất i10 cũng khá đơn giản với bảng điều khiển trung tâm gần như "không có gì".
Trên bản thấp cấp nhất, i10 có điều hòa cơ và đầu CD. Các ghế điều chỉnh cơ, bọc nỉ. Cách bố trí hộp số liền với bảng điều khiển trung tâm khiến hàng ghế đầu hơi chật. Động cơ 1.1 công suất 67 mã lực, mô-men xoắn 99 Nm, thấp hơn khá nhiều so với loại 1.0 của Kia Morning nội địa.
Hộp số sàn 5 cấp. Một chiếc xe hạng nhỏ, công suất vừa phải không đáp ứng được nhiều về tính năng lái. Dù đề-pa ở số 2 khá dễ dàng, nhưng xe hơi yếu khi cố để lên tốc độ 80 km/h. Thời gian tăng tốc lên 100 km/h theo thử nghiệm của Hyundai là 15-16 giây. Tốc độ tối đa 152 km/h.
Hyundai i10 sẽ chỉ thích hợp cho nhu cầu sử dụng trong phố. Ra đường trường, tài xế có thể phải thường xuyên nhường xe khác. Độ cách âm không tốt như Morning 2012 nội địa Nam Hàn. Ngoài tiếng ồn chủ yếu từ lốp, tiếng gió cũng đáng kể.
Điểm thú vị là i10 sử dụng hệ thống trợ lực lái điện, độc lập với tốc độ động cơ. Vô-lăng nhẹ nhàng nhưng chuẩn, không bị dơ và là thuận lợi không nhỏ cho khách hàng nữ. Ở khoảng tốc độ 60-80 km/h, tay lái vẫn chắc.
Hệ thống an toàn gồm một túi khí cho ghế lái. Phanh trước dạng đĩa, phanh sau tang trống.
Nếu chỉ có bản số sàn 1.1MT, Hyundai i10 khó có thể được khách hàng nữ, những người sử dụng chủ yếu các dòng xe hạng nhỏ, lựa chọn.
Hồng Hà

