Như thế nào được xem là tội tà dâm?
Những người không có niềm tin vào tâm linh dễ lạc lối khi họ đuổi theo những dục vọng của bản thân bất chấp luân thường đạo lý. Họ không biết rằng ngay khi một ý niệm dâm dục khởi phát, thậm chí trước khi hành vi nào đó xảy ra, đã tạo nghiệp lớn cho chính mình và cả con cái họ.
1. Như thế nào được xem là tội tà dâm?
Trong Phật giáo ghi nhận khổ đau do tham ái, chấp thủ, gây ra, bởi vì chúng là một trong ba độc tố rất nguy hiểm và có thể làm hư hỏng, mất đạo đức và giết chết tâm linh của con người không chỉ trong hiện kiếp mà còn xuyên qua những kiếp trong tương lai. Cho nên, vấn đề ở đây là phải dập tắt khổ đau của từng cá nhân. Trong đó, tham ái là cái mốc quan trọng nhất và nó được sai khiến bởi bàn tay của vô minh.
Trong ngũ giới của tại gia cư sĩ, Đức Thế Tôn chỉ chế giới tà dâm. Sự tà dâm là sự hành dâm, sự quan hệ tình dục với người khác mà không phải là vợ, là chồng của nhau. Nghĩa là không chung sống với người không phải là vợ hay là chồng của mình.
Nếu người đàn ông và người đàn bà là vợ chồng của nhau, đúng theo phong tục tập quán, được hai bên cha mẹ, bà con dòng họ công nhận, được chính quyền chấp thuận đúng theo luật, được mọi người đều công nhận… thì sự hành dâm, sự quan hệ tình dục giữa vợ chồng của nhau không gọi là tà dâm, bởi vì đó là việc bình thường của những người tại gia, cũng không bị mọi người chê trách
Ngay cả vợ hay chồng của chính mình nhưng giao tiếp tình dục không đúng lúc, không đúng chỗ và không chừng mực, và không hợp thời thì cũng bị liệt kê vào tội tà dâm. Nói tóm lại, những sự quan hệ nam, nữ không được luật pháp và luật tục thừa nhận đều được xem như là tà dâm. Vi tế hơn, chúng ta không nên đắm sắc, nghĩ ngợi bất chính, chơi bời lả lơi. Đây là điều kiện để đảm bảo hạnh phúc gia đình, an toàn, và ổn định xã hội.
Không có gì bất hạnh hơn khi phải sống trong một gia đình có sự quan hệ bất chánh. Những hành vi bất chánh giữa mối quan hệ của một trong hai người bạn đời sẽ đưa đến sự cãi vã, ghen tuông, đánh đập, xô ẩu; làm đổ vỡ hạnh phúc gia đình; dẫn đến sự ly hôn; làm cho con cái sống được với mẹ thì mất tình thương của cha, được sống với cha thì mất tình thương của mẹ. Hơn thế nữa, con cái sẽ dễ dàng đi đến những bê tha, thiếu sự giáo dục của người cha hoặc của người mẹ rồi sa đọa vào các tệ nạn xã hội. Bên cạnh đó, bà con không đoái hoài; làng xóm chê trách, bạn bè xa lánh, thanh danh hoen ố, phẩm hạnh lu mờ…
Đức Thế Tôn khuyên chúng ta không nên tà dâm là tôn trọng sự công bằng và hạnh phúc. Mọi người ai cũng muốn có một gia đình đầm ấm, yên vui. Nếu ai cũng giữ được giới này thì xã hội sẽ không có người phá hoại gia cang, làm nhục nhã tông môn, không đưa con người vào đường dâm loạn, bê tha.
Như chúng ta thấy trong thực tế, không có sự thù oán nào mãnh liệt bằng sự thù oán do sự lừa dối hay phụ rẫy do tình ái gây ra. Các cuộc án mạng xảy ra hàng ngày hầu như là do nhiều phạm phải khác nhau, thế nhưng phần lớn là kết quả của sự tà dâm. Cho nên, đối với các cư sĩ tại gia, Đức Thế Tôn đã khéo léo dạy bảo một lối sống gia đình hạnh phúc, êm ấm.
Mục đích giáo lý của đạo Phật là có khuynh hướng đưa tất cả chúng sanh và nhất là con người thoát ra khỏi khổ đau; mà nguyên nhân chính của sự khổ đau ấy là ái dục. Vì vậy, đạo Phật dạy con người nên xa lìa ái dục càng sớm càng tốt và hằng tán dương những người đã, đang và sẽ có khuynh hướng xa lìa ái dục.
Riêng đối với những người đã xuất gia, Đức Thế Tôn dạy nên đoạn tuyệt dâm dục. Vì dâm dục là nguyên nhân đưa đến sự đọa lạc, khổ đau, và luân hồi trong sanh tử. Tham ái càng nặng thì trói buộc càng chặt, đau khổ do đó mà tăng trưởng. Động cơ của tham ái là si, tựa vào gốc si mê, ích kỷ để yêu thương. Do đó, ái chỉ làm cho mình và người đau khổ không chỉ trong hiện kiếp mà nó còn trầm luân sinh tử trong vòng luân hồi bất tận. Nếu sự yêu thương bị ngăn chặn hoặc bị từ chối thì yêu thương sẽ biến thành oán thù. Nếu yêu thương được thỏa mãn thì càng mê đắm, mù quáng.
2. Nhân Quả báo ứng đối với tội tà dâm
Người nào tạo ác nghiệp tà dâm với vợ, chồng, con người khác; nếu có tội nặng, thì sau khi người ấy chết, ác nghiệp tà dâm ấy cho quả trong thời kỳ tái sinh kiếp sau trong 4 cõi ác giới (địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sinh), chịu quả khổ của ác nghiệp ấy cho đến khi mãn quả của ác nghiệp ấy mới thoát được khỏi cõi ác giới.
Sau khi thoát khỏi cõi ác giới, nếu trường hợp thiện nghiệp nào khác cho quả trong thời kỳ tái sinh kiếp sau làm người; và trường hợp, nếu người nào tạo ác nghiệp tà dâm có tội nhẹ, sau khi người ấy chết, ác nghiệp tà dâm ấy không có khả năng cho quả tái sinh kiếp sau, mà thiện nghiệp nào khác cho quả trong thời kỳ tái sinh kiếp sau làm người; thì cả hai trường hợp này, người ấy sẽ còn phải chịu quả xấu của ác nghiệp tà dâm từ kiếp quá khứ.
Trong quá khứ, một số người có công năng có thể nhìn thấy rằng quả báo với tội tà dâm là nghiêm trọng nhất.
Lấy ví dụ, thông dâm với vợ người khác, hay làm ô uế con gái nhà người ta sẽ bị đày đọa dưới địa ngục trong 500 năm. Sau đó, anh ta có thể phải mang thân trâu ngựa trong 500 năm nữa, trước khi được chuyển sinh thành người. Thậm chí khi thành người, anh ta có thể phải làm nghề kỹ nữ.
Nếu ai đó bày mưu thông dâm với một góa phụ hay ni cô, làm bại hoại nhân luân, người đó sẽ phải chịu khổ dưới địa ngục trong 800 năm. Sau đó, anh ta có thể đầu thai thành lợn hoặc dê để bị mổ lấy thịt trong 800 năm tiếp theo. Đến khi lại được mang thân người, anh ta có thể bị đau khổ vì tàn tật.
Quyến rũ người có địa vị cao hay trẻ nhỏ, làm bại hoại cương thường, sẽ khiến người đó chịu khổ dưới địa ngục trong 1.500 năm. Đến khi lại được mang thân người, người đó có thể bị chết trong bụng mẹ hay chết non, tức là có một đời sống cực ngắn.
Tất nhiên, những quả báo này không phải là toàn bộ, mà có thể khác nhau tùy theo trường hợp. Tuy nhiên, điều này cho thấy mức độ nghiêm trọng của tội tà dâm.
Nhiều người chỉ vì sự hưởng lạc và phóng túng nơi nhân gian trong phút chốc những lại nhận quả báo tội tà dâm cực kỳ nghiêm trọng. Sự đau khổ trong địa ngục là ngoài sức mô tả. Một khi vào ngục vô gián, thì sẽ không còn đường ra nữa.
Trong Pháp cú kinh Đức thế tôn dạy như sau:
“Tà dâm, tà vạy vợ người
Bốn điều bất hạnh
đến thời phải vương:
Một chịu họa hại tai ương
Hai là khó ngủ
dạ thường lo âu
Ba, đời phỉ nhổ ngập đầu
Bốn đọa địa ngục,
đâm xâu, cột đùm!” (Kinh Lời Vàng, câu 309).
Tội đầy, phải vác, phải bưng
Bất hạnh chạy đuổi,
còng lưng mà bò!
Khoái lạc mảnh tợ đường tơ
Lại hoảng, lại sợ
vui so thấm gì!
Luật vua hình trọng kéo đi!
Gặt quả khốc liệt
dính chi vợ người!”(Kinh Lời Vàng, câu 309 & 310).
3. Làm việc thiện hóa giải tội tà dâm
Nghiệp ái dục có năng lực chi phối và tác động rất mãnh liệt lên đời sống cá nhân, nếu không chuyển hóa dẫn đến mất kiểm soát thì có thể tạo ra vô vàn tội lỗi. Quan trọng nhất là thực tập thiền định để làm chủ tâm ý (vì ý dẫn đầu các pháp), chuyển hóa những năng lượng tính dục, tạo sự quân bình và tĩnh tại cho thân tâm. Ngoài ra, cần chú trọng đến thể dục, lao động và các hoạt động xã hội khác để giải phóng năng lượng thừa cũng như giải tỏa những ức chế tâm sinh lý nói chung.
Câu chuyện về việc thiện hóa giải tội tà dâm được kể lại như sau: Một vị người ở Kim Hoa tên là Tề Vượng, đến 50 tuổi mà vẫn chưa có con cái. Thầy tướng nói: “Trên mặt ông có ác khí, chắc chắn đã làm việc trái với lương tâm”. Tề Vượng nói: “Khi tôi còn trẻ đã từng lén lút vụng trộm với vợ người khác”.
Thầy tướng nói: “Phạm phải loại tội này, phải bị tuyệt tử tuyệt tông! Tội tà dâm là khó sám hối nhất, phải tích thiện nhiều thì mới có thể vãn hồi được!”.
Tề Vượng vì thế mà đã quyết định sám hối. Năm đầu tiên, khi người khác làm việc thiện, ông rất vui vẻ bố thí tiền của cho họ. Thầy tướng nói: “Ông làm vẫn chưa đủ!”. Thế là năm sau bất kể gặp việc thiện nào Tề Vượng cũng là người đầu tiên quyên tiền, số tiền ông quyên góp lúc nào cũng hơn một nửa, thầy tướng nói: “Ông làm vẫn chưa đủ”. Năm thứ 3 không cần ai bảo, Tề Vượng tự mình đi làm việc thiện. Thầy tướng nói: “Vận âm đức đã xuất hiện trên mặt của ông, ông không phải lo lắng về việc không có con cái nữa”.
Về sau, Tề Vượng quả nhiên đã có được một mụn con trai.
Tề Vượng khi đến tuổi 70, thân thể vẫn khỏe mạnh, còn có thể chơi đùa cùng con cháu!
Article sourced from TUVINGAYNAY.
Original source can be found here: https://tuvingaynay.com/nhu-the-nao-la-pham-toi-ta-dam-nhan-qua-bao-ung-doi-voi-toi-ta-dam.html